Hơn 60 năm qua, Hàng không dân dụng Việt Nam (HKDVN) đã tạo nên một truyền thống đáng tự hào; phát triển từ nhỏ đến lớn, từ thô sơ đến hiện đại, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Ra đời từ lực lượng vũ trang nhân dân, hàng không dân dụng Việt Nam luôn giữ vững bản chất cách mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và Nhân dân. Trải qua hơn 60 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển; Ngành hàng không dân dụng Việt Nam đã tích lũy được những thành tích, chiến công, ghi vào lịch sử lâu dài của đất nước, của lực lượng phòng không - không quân, ngành GTVT để lại những bài học cao quý, những kinh nghiệm thực tiễn sâu sắc và là sự kết tinh phẩm chất cao quý của “Bộ đội Cụ Hồ”. phần một
TỔ CHỨC ƯU TIÊN CỦA
CÔNG NGHIỆP NÔNG NGHIỆP DÂN DỤNG VIỆT NAM
Tháng 6 năm 1945, Bác Hồ đã lãnh đạo xây dựng Sân bay Lũng Cò tại thôn Đồng Đồn, xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang để vận chuyển quân Đồng minh cho Mặt trận Cách mạng Việt Nam (Máy bay L5 của Hoa Kỳ chở và vận chuyển quân Đồng minh, thuốc men, vũ khí từ Côn Minh đến Tân Trào; sân bay dài 400m, rộng 20m). Đó là sân bay do chúng ta tự xây dựng và có thể coi là sân bay “quốc tế” đầu tiên của cách mạng Việt Nam. Sân bay Lũng Cò hình thành đã tạo điều kiện thuận lợi trong quan hệ giữa nước ta với các nước Đồng minh chống kẻ thù chung là phát xít Nhật. Góp phần vào thắng lợi chung của Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Ngày 9-3-1949, Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra quyết định thành lập Ban Nghiên cứu Lực lượng Phòng không do cấp tướng nhà nước cấp; Đ/c Hà Đông - Trưởng ban. Nhiệm vụ của Hội đồng là xây dựng cơ sở ban đầu của lực lượng Không quân nhân dân; hiểu rõ hoạt động của Không quân Pháp và nghiên cứu, đề xuất các biện pháp chống lại chúng; chuẩn bị cơ sở vật chất, từng bước đào tạo cán bộ, nhân viên kỹ thuật, chuẩn bị các điều kiện mở rộng hoạt động khi có cơ hội. Sau chiến thắng chống thực dân Pháp; Ngày 10-10-1954, cùng với kế hoạch tiếp quản thủ đô, quân ta tiến vào sân bay Gia Lâm đánh chiếm các vị trí quan trọng; Lá cờ đỏ sao vàng tung bay phía trên đài kiểm soát của sân bay. Đúng 12 giờ đêm ngày 31-12-1954, từ Sân bay Gia Lâm, một bức điện tín được phát đi trên không trung, thông báo cho toàn thế giới: “Kể từ 0 giờ 00 ngày 1-1-1955, theo giờ Hà Nội, Thủ đô nước En-đê-ôn dân chủ cộng hòa. của Việt Nam, sân bay Gia Lâm không còn trong vùng quản chế của Đông Dương Mọi máy bay muốn ra vào miền Bắc Việt Nam, từ vĩ tuyến 17 trở ra phải được sự cho phép của cơ quan phái cử của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đặt tại sân bay Gia Lâm - Hà Nội Để chuẩn bị cơ sở ban đầu cho việc xây dựng và phát triển lực lượng không quân và hàng không dân dụng Việt Nam, ngày 03 tháng 3 năm 1955, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 15/QĐA thành lập Ban Nghiên cứu Sân bay do đồng chí Trưởng ban chỉ đạo. của Bộ Tổng Tham mưu. Nhiệm vụ của Ban là chỉ huy, quản lý các sân bay hiện có, tổ chức chỉ huy bay hàng ngày, giúp Bộ Tổng Tham mưu nghiên cứu các nội dung về tổ chức xây dựng lực lượng không quân phù hợp với kế hoạch xây dựng Quân chủng trong thời kỳ mới. Phần thứ hai
Hệ thống điện tử hàng không dân dụng VIỆT NAM ra đời và PHÁT TRIỂN TRONG THỜI KỲ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA,
GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT QUỐC GIA (1956-1975)
Đầu tiên. Cục Hàng không dân dụng ra đời
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, cách mạng Việt Nam bước sang một giai đoạn mới. Miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, khôi phục kinh tế, đẩy mạnh sản xuất, xây dựng miền Bắc vững chắc về mọi mặt, làm chỗ dựa cho cuộc đấu tranh chống Mỹ, thống nhất hai miền Nam - Bắc. Trong bối cảnh đó, việc thành lập một tổ chức chính thức của ngành hàng không của một quốc gia độc lập và yêu cầu xây dựng lực lượng không quân nhân dân để tăng cường khả năng bảo vệ Tổ quốc là yêu cầu cấp thiết. Với tầm nhìn chiến lược sâu sắc của Đảng và Bác Hồ kính yêu, ngày 15/01/1956, Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng đã ký ban hành Nghị định số 666/TTg của Thủ tướng Chính phủ thành lập Cục Hàng không dân dụng, đặt nền móng cho sự ra đời, trưởng thành và phát triển bền vững của Lực lượng Không quân Việt Nam. Nghị định thành lập cơ quan quản lý hàng không dân dụng của Chính phủ đã đặt nền móng cho việc thành lập tổ chức vận tải hàng không, hội nhập và giao lưu hàng không với các nước, đồng thời đáp ứng nguyện vọng của lãnh đạo và chiến sĩ. bằng máy bay. Từ đó trở đi, hàng năm, ngày 15 tháng Giêng được coi là Ngày truyền thống của ngành Hàng không dân dụng Việt Nam. 2. Hàng không dân dụng Việt Nam đã góp phần tích cực vào công cuộc khôi phục kinh tế, phục hồi và hàn gắn vết thương chiến tranh ở miền Bắc (1956-1959).
Ra đời trong hoàn cảnh kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu, đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền nhưng được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và dưới sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Quân ủy Trung ương. của Quốc phòng, sự nỗ lực của Ban Nghiên cứu sân bay, sự hiệp đồng phối hợp của các đơn vị quân đội, chính quyền địa phương và nhân dân, trong năm 1956, toàn miền Bắc đã khôi phục được 6 sân bay ở các thành phố như: Hà Nội, Hải Phòng, Vinh, Sơn La, Lai Châu. Châu, Quảng Bình đã tạo thành đầu mối giao thông lớn với Sân bay Gia Lâm là trung tâm.
Sau khi ra đời, tuy còn rất non trẻ, tháng 2 năm 1956, máy bay hàng không dân dụng Việt Nam bắt đầu thay thế hàng không Pháp để phục vụ Ủy ban Quốc tế chịu trách nhiệm giám sát việc thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ ở Việt Nam. Đặc biệt cùng thời điểm, chiếc máy bay LI-2, số hiệu VN-198, đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đưa đón Bác Hồ và các đoàn cán bộ lãnh đạo của Đảng, nhà nước, quân đội đi công tác quốc phòng và các đoàn công tác đặc biệt. Trước yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, ngày 24 tháng 01 năm 1959, Bộ Quốc phòng ra Quyết định 319/QĐ thành lập Cục Không quân trên cơ sở tổ chức và lực lượng của Hội đồng Nghiên cứu Cảng hàng không và Cục Hàng không dân dụng Việt Nam. . . Ngày 1-5-1959, Binh chủng Hàng không Vận tải được kiện toàn và mở rộng thành Trung đoàn Vận tải Hàng không 919 - đơn vị Vận tải quân sự - Hàng không dân dụng, tiền thân của Đoàn Vận tải Hàng không 919. Cuối năm 1959, có Cục Hàng không Việt Nam chỉ có 10 máy bay gồm: IL-14, Li-2, AN-2, Mi-4, Aero -45, Trener nhưng đã thực hiện 3.735 chuyến bay chở khách và hàng hóa trên các đường bay nội địa, góp phần thiết thực vào công cuộc khôi phục kinh tế miền Bắc và sự nghiệp cách mạng chung của cả nước. 3. Hàng không dân dụng Việt Nam đã góp phần thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ở miền Bắc và giúp đỡ cách mạng miền Nam (1960-1964).
Sau khi hoàn thành kế hoạch khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh (1955-1959), miền Bắc nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất và ủng hộ cách mạng. công tác quản lý lực lượng hàng không dân dụng đồng thời nâng cao vai trò, vị thế của hàng không dân dụng Việt Nam trên trường quốc tế; Ngày 07 tháng 6 năm 1963, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 39/BT thành lập lại Cục Hàng không dân dụng. Ngày 22 tháng 10 năm 1963, Quân chủng Phòng không - Không quân chính thức được thành lập trên cơ sở cơ quan, số lượng của Cục Phòng không và Cục Không quân. Trong hoàn cảnh chiến tranh đang hoành hành khắp cả nước, cán bộ, chiến sĩ vận tải hàng không vừa làm nhiệm vụ quân sự, vừa làm nhiệm vụ bay dân sự. Các phi công, máy bay mang biểu tượng hàng không dân dụng Việt Nam nhưng thực chất là lực lượng quân sự, thuộc biên chế Trung đoàn hàng không vận tải 919, Bộ Tư lệnh Không quân. Trung đoàn 919 đã tổ chức hàng nghìn chuyến bay vận tải phục vụ mở đường Trường Sơn; vận chuyển vũ khí, khí tài phục vụ các đơn vị Phòng không - Không quân và các nhiệm vụ bay đột xuất theo yêu cầu công tác sẵn sàng chiến đấu. Đặc biệt vào thời điểm này, Vietnam Airlines và Liên Xô đã thiết lập Cầu hàng không Xô-Việt-Lào để vận chuyển vũ khí, khí tài, lương thực, quân trang, quân dụng, chuyển quân, nhận dạng chuyến bay, liên lạc... làm nhiệm vụ quốc tế với cách mạng Lào. Với những chiếc máy bay thô sơ như AN2, LI-2, IL-14, T-28, các chiến sĩ Binh chủng Không quân Vận tải đã làm cho quân địch phải kinh ngạc trước những chiến công hiển hách: ngày 14-2-1964, hai phi công Nguyễn Văn Ba và Lê Tiến Phước của Trung đoàn vận tải đường không 919 đã sử dụng máy bay T-28 thu được của địch bắn rơi máy bay C123 của Mỹ-Vui thả biệt kích xuống vùng trời Tây Bắc. 4. Hàng không dân dụng Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1965-1975)
Cũng như các ngành khác của nền kinh tế quốc dân, ngành hàng không dân dụng cũng bước vào sản xuất kinh doanh trong giai đoạn này với nhiều khó khăn do chiến tranh phá hoại của không quân và hải quân Hoa Kỳ. Về tổ chức, ngành hàng không dân dụng Việt Nam trong giai đoạn này đã có những thay đổi đáng kể như hình thành các sở ngoại vụ, vận tải, tài chính và thanh toán quốc tế, các hội đồng quản lý hành chính, hiệp định thương mại... quản lý bay, lập kế hoạch, mặc dù biên chế của phòng chỉ có 36 đại lý. Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác xây dựng, trực tiếp chống chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ, đồng thời chi viện cho tiền tuyến miền Nam, đấu tranh thống nhất đất nước. Lực lượng và nguồn lực của Không quân và Hàng không dân dụng không ngừng tăng lên. Về máy bay được trang bị thêm các loại máy bay vận tải quân sự và chở khách có sức chứa lớn hơn, hiện đại hơn như trực thăng Mi-6, AN-24, IL-18. Trong hoàn cảnh chiến tranh, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn đã tập trung hoàn thành xuất sắc 2 nhiệm vụ không vận, trực tiếp tham gia chiến đấu, lập thành tích xuất sắc có ý nghĩa lịch sử tô thắm truyền thống của Bộ đội Không quân nhân dân và Hàng không dân dụng. . Trong hai năm 1966 và 1967, Trung đoàn 919 đã bắn chìm 04 tàu biệt kích và làm bị thương 03 tàu biệt kích khác trên vùng biển phía Bắc. Đó là một chiến thắng trên mặt trận không-biển. Ngày 12-1-1968, một trận pháo kích đã phá hủy hoàn toàn đài ra đa chỉ huy máy bay Mỹ đánh phá miền Bắc trên đồi Pathí (Lào). Đó là một chiến thắng vang dội trên mặt trận không đối đất. Riêng với chuyên cơ, Trung đoàn 919 đã thực hiện 200 chuyến bay chở Bác Hồ, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội nhân dân Việt Nam, thực hiện nghĩa vụ quốc tế với các nước bạn Lào, Campuchia. Bảo mật, an toàn tuyệt đối. Trong chiến dịch Tết Mậu Thân 1968, các chiến sĩ Binh chủng Không quân Vận tải (Hàng không Dân dụng) đã anh dũng vượt vĩ tuyến 17 vận chuyển vũ khí, lương thực chi viện cho quân và dân ta đánh địch trên Trị-Thiên-Huế. đằng trước. Những cánh bay quyết tâm cao cả vì ruột thịt phương Nam bay trong đêm tối, sương mù dày đặc khó tìm mục tiêu; nhiều tổ bay đã vĩnh viễn nằm lại chiến trường. Trong cuộc Tổng tiến công mùa Xuân 1975 và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, lực lượng hàng không dân dụng và lực lượng không quân vận tải đã dốc toàn lực tham gia và thực hiện nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu nhanh chóng của tiền tuyến. . Quân địch rút chạy khỏi sân bay đến đâu, không vận được nối liền đến đó để nhanh chóng tiếp tế vũ khí, khí tài, lương thực, thuốc men cứu chữa thương binh. Ngày 15 tháng 5 năm 1975, chiếc chuyên cơ của Hàng không dân dụng Việt Nam bay từ thủ đô Hà Nội vào thành phố Sài Gòn chở Chủ tịch Tôn Đức Thắng và đoàn đại biểu Đảng, Nhà nước ta dự lễ chiến thắng giải phóng đất nước. Phần thứ ba
NGÀNH NÔNG NGHIỆP DÂN DỤNG Ở VIỆT NAM
LIÊN TỤC MỞ RỘNG VÀ PHÁT TRIỂN
TRONG ĐIỀU KIỆN MỚI CỦA ĐẤT NƯỚC (1976-1989)
1. Đất nước thống nhất, Tổng cục Hàng không dân dụng Việt Nam ra đời tiếp tục thực hiện song song hai nhiệm vụ kinh tế là hàng không dân dụng và phục vụ quốc phòng.
Sau khi đất nước thống nhất, nhu cầu vận tải hàng không giữa hai miền là rất lớn, đồng thời buộc hàng không dân dụng phải trở thành một ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng của đất nước. Vì vậy, ngày 11/02/1976, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 28/CP về việc thành lập Tổng cục Hàng không dân dụng trực thuộc Hội đồng Chính phủ, nhưng về tổ chức, quản lý và chỉ đạo xây dựng ngành Hàng không dân dụng. ngành công nghiệp. Hàng không dân dụng vẫn thuộc Bộ Quốc phòng. Cơ cấu tổ chức của Tổng cục Hàng không dân dụng Việt Nam gồm có Tổng cục Hàng không dân dụng, Vụ Chính trị, Vụ Vận tải, Vụ Kỹ thuật-Vật tư, Vụ Hậu cần, Vụ Kế toán-Tài chính và Vụ Tổ chức cán bộ. ., văn phòng, phòng thiết kế cơ sở và sân bay tại 3 miền Bắc Trung Nam. Tổng cục Hàng không có các đơn vị sản xuất, trực thuộc Đoàn bay 919 khai thác tại 11 cảng hàng không: Gia Lâm, Tân Sơn Nhất, Phú Quốc, Rạch Giá, Đà Nẵng, Đồng Hới, Phú Bài, Liên Khương, Buôn Ma Thuột, Nha Trang, Quy Nhơn. Khi đó tổng cộng có 42 máy bay các loại. Tháng 6 năm 1976, Tổng cục ra quyết định về việc thay đổi số đăng ký, cờ hiệu, chữ tàu bay nhằm thống nhất quản lý nhà nước, bảo đảm chủ quyền quốc gia đối với các phương tiện hàng không và phù hợp với quy định thông lệ quốc tế. Mở lại đường A1 (Bangkok - trục Hong Kong); thảo luận về việc khôi phục quyền kiểm soát, quản lý và vận hành Vùng thông báo bay (FIR) Sài Gòn, nay là FIR Hồ Chí Minh. 2. Hàng không dân dụng Việt Nam vừa đóng góp cho nền kinh tế vừa chiến thắng hai cuộc chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam và phía Bắc.
Năm 1977-1978, tình hình biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc bắt đầu xảy ra xung đột vũ trang gay gắt. Lực lượng không quân mới tách khỏi lực lượng không quân vận tải, hình thành tổ chức, xây dựng lực lượng nên nhiệm vụ quốc phòng trong thời kỳ này được đặt lên hàng đầu, nhưng nhiệm vụ vận tải đường không vẫn cần được đảm bảo. Trong thời gian này, lực lượng không quân Việt Nam đã huy động tối đa máy bay hiện có, vận chuyển cán bộ, chiến sĩ, vũ khí khí tài, khí tài, quân trang, quân dụng, thuốc men, viện trợ kịp thời, góp phần vào thắng lợi của nhân dân ta và nhân dân Campuchia. . Kể từ ngày 20 tháng 8 năm 1976, chính phủ cho phép ngành hàng không dân dụng được bán vé hành khách và cước hàng hóa. Trong thời kỳ 1976-1979, các chuyến bay nội địa đã vận chuyển 1.161.928 hành khách, 8.624 tấn hàng hóa và bưu kiện; đường bay nước ngoài sức chở 40.000 hành khách, 700 tấn hàng hóa; chỉ đạo cất, hạ cánh an toàn 2.514 chuyến bay, cung cấp 50.000 giờ bay an toàn trong và ngoài nước; thường xuyên có 70% máy bay giỏi; đồng thời tiếp nhận và làm chủ các loại máy bay Liên Xô mới mua như YAK-40, TU-134; Về đào tạo nguồn nhân lực, ngày 24 tháng 3 năm 1979, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Trường Hàng không Việt Nam. Năm 1980, không chỉ đào tạo nguồn nhân lực cho ngành mà còn giúp Lào, Campuchia đào tạo sinh viên hàng không. 3. Hàng không dân dụng Việt Nam từng bước chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang kế hoạch kinh doanh xã hội chủ nghĩa
Đầu những năm 1980, nền kinh tế đất nước tiếp tục khủng hoảng sâu sắc và kéo dài. Chính sách cấm vận của Mỹ gây khó khăn lớn cho phát triển kinh tế nói chung và hàng không dân dụng nói riêng. Trước tình hình đó, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tổng cục năm 1981 đã xác định, phát triển ngành hàng không với 3 mục tiêu: vận tải hàng không; dịch vụ hàng không và sản xuất chế biến, trong đó vận tải hàng không là khâu trung tâm. Tổng cục Quản lý đã mạnh dạn từng bước đổi mới tổ chức, theo hướng giảm bớt khâu trung gian; cải tiến quản lý kinh tế, từng bước xóa bỏ lối làm việc hành chính, quan liêu, mang nặng tính bao cấp, từng bước lập kế hoạch kinh doanh. Sân bay Tân Sơn Nhất bước đầu đưa ra tiêu chuẩn; Sân bay Nội Bài cải thiện suất ăn nóng trên máy bay các đường bay quốc tế; nhiều đơn vị áp dụng hình thức trả lương theo hiệu quả công việc, thưởng, phụ cấp ăn ca. Năm 1984, tổng quản lý phân cấp quản lý; hệ thống các đòn bẩy kinh tế như tiền lương, hợp đồng kinh tế, phân phối các quỹ sử dụng ở các mức độ khác nhau. Năm 1985 thực hiện hạch toán kinh tế cho từng đầu mối trực thuộc. Để hàng không dân dụng Việt Nam nhanh chóng hội nhập với hàng không dân dụng quốc tế, ngày 1 tháng 3 năm 1980, Chính phủ Việt Nam tuyên bố gia nhập Công ước về hàng không dân dụng quốc tế ký tại Chicago. Theo Điều 92 của Công ước, hàng không dân dụng Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế (ICAO) vào ngày 12/4/1980. Sau khi được chính thức công nhận là thành viên chính thức của ICAO, Cục trưởng Cục Hàng không dân dụng Việt Nam Trần Mạnh, lần đầu tiên tham dự Đại hội đồng ICAO lần thứ 23 tại Canada. Tại diễn đàn này, Việt Nam đã nhận được sự chấp thuận của cộng đồng hàng không dân dụng quốc tế về việc nhường quyền khai thác Vùng thông báo bay (FIR) Hồ Chí Minh cho Việt Nam. Để đạt được mục tiêu phát triển, Tổng cục Hàng không Việt Nam quan tâm đến sự phát triển của cảng hàng không, sân bay. Năm 1982, nhà ga sân bay quốc tế Nội Bài; Khánh thành Nhà khách A sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất. Trong đó, nhà ga sân bay quốc tế Nội Bài là công trình đăng cai tổ chức Đại hội Đảng toàn quốc. Ngoài ra, các sân bay còn được trang bị thêm các thiết bị như radar thời tiết, tháp điều khiển cất hạ cánh, hệ thống điều khiển bay tầm xa cho máy bay quá cảnh, trạm thông tin liên lạc. Hơn hết, bên cạnh thế hệ máy bay do Liên Xô sản xuất, năm 1983, ngành hàng không Việt Nam đã đưa Boeing B-707 vào biên chế.
Bước vào thời kỳ đổi mới, với tinh thần kinh tế nhạy bén, tận dụng tối đa mọi nguồn lực, nhanh chóng nắm bắt cơ hội của kinh tế thị trường, Tổng cục Hàng không đã đề xuất với Hội đồng Bộ trưởng cho phép tự cân đối một số khoản thu ngoại tệ. các khoản chi thực hiện cơ chế tự chủ về đầu tư kinh doanh, đề nghị Tổng cục tách ra khỏi Bộ Quốc phòng, trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng. Hàng không dân dụng Việt Nam đang chuẩn bị bước vào thập niên 1990 với nhiều thay đổi quan trọng và mang tính bước ngoặt.
Phần thứ tư
ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN HÀNG KHÔNG VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1989 - 2015
Hàng không dân dụng Việt Nam đổi mới, tách khỏi cơ chế phòng vệ, phân định chức năng quản lý nhà nước và chức năng sản xuất, thương mại.
Ngày 29 tháng 8 năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định số 112/HĐBT quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Hàng không dân dụng Việt Nam, thực hiện chức năng cơ quan quản lý. Quyết định số 225/CT về việc thành lập Tổng công ty Hàng không Việt Nam để thực hiện chức năng vận chuyển hàng không và dịch vụ đồng bộ. Nghị định 112/HĐBT quy định “Hàng không dân dụng Việt Nam là ngành kinh tế - kỹ thuật của nhà nước; Tổng cục Hàng không dân dụng là cơ quan báo cáo trực tiếp trước Hội đồng Bộ trưởng. Nghị định 112/HĐBT và Quyết định 225/CT của Hội đồng Bộ trưởng và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử ngành hàng không dân dụng Việt Nam. Từ nay, cơ quan quản lý nhà nước về hàng không dân dụng là cơ quan dân sự, đơn vị kinh tế là cơ quan kinh tế nhà nước.
Ngày 30/7/1992, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 242/HĐBT thành lập Cục Hàng không dân dụng Việt Nam, trực thuộc Bộ Giao thông vận tải và Bưu điện. Cục Hàng không Việt Nam là cơ quan quản lý nhà nước về hàng không dân dụng, có tư cách pháp nhân, có con dấu và ngân sách riêng, được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước. Ngành hàng không Việt Nam đã chính thức chuyển từ hạch toán tập trung toàn ngành sang cơ chế hạch toán độc lập. Ngày 26/3/1993, văn phòng chính phủ có công văn số 86/TB thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ về phương hướng phát triển ngành công nghiệp máy bay Việt Nam giai đoạn 1993 - 2000. phát triển ngành hàng không dân dụng Việt Nam thành một ngành kinh tế kỹ thuật quan trọng, có khả năng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như tận dụng mọi cơ hội để mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các quốc gia xa lạ; đồng thời bảo đảm yêu cầu phát triển văn hóa - xã hội, an ninh, quốc phòng của đất nước. Cục Hàng không Việt Nam là cơ quan quản lý nhà nước đối với tất cả các doanh nghiệp hàng không. Vì vậy, cần tách chức năng quản lý nhà nước của Cục HKVN với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp hàng không khác. Từ tháng 5/1993, ngành hàng không dân dụng Việt Nam chính thức hoạt động theo cơ chế mới. Theo Nghị định 242/HĐBT và Quyết định 36/TTg của Thủ tướng Chính phủ, toàn ngành được sắp xếp tổ chức theo hướng tách khối quản lý nhà nước ra khỏi khối sản xuất kinh doanh. Theo đó, Cục Hàng không Việt Nam là cơ quan quản lý nhà nước về ngành hàng không Việt Nam trên phạm vi cả nước. Khối sản xuất kinh doanh gồm 13 doanh nghiệp; trong đó hãng hàng không quốc gia Việt Nam (Vietnam Airlines) là công ty lớn nhất.
Thời kỳ phát triển toàn diện trên mọi lĩnh vực của hoạt động hàng không dân dụng Việt Nam
Đầu tiên. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về hàng không
Hệ thống pháp lý và quy hoạch đô thị ngày càng hoàn thiện. Là cơ sở để ngành đổi mới tổ chức, cơ chế quản lý, cải cách hành chính, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, nhất là công nghệ thông tin để ngành có bước phát triển hơn nữa. của cảng hàng không, sân bay. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng, cập nhật theo tiêu chuẩn quốc tế như: Ngày 26/12/1991, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua Luật Hàng không dân dụng Việt Nam. Luật Hàng không dân dụng Việt Nam đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng điều chỉnh các mối quan hệ về hoạt động hàng không dân dụng cho các tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế được phép hoạt động kinh doanh hàng không. Tại Kỳ họp thứ 7, khóa IX, ngày 20 tháng 4 năm 1995, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hàng không dân dụng Việt Nam ban hành ngày 26 tháng 12 năm 1991. Nội dung sửa đổi, bổ sung quản lý nhà nước về hàng không dân dụng, quản lý hoạt động bay, quản lý và khai thác cảng hàng không, an ninh an toàn hàng không. Ngày 22 tháng 6 năm 2006, Luật Hàng không dân dụng sửa đổi đã được Quốc hội thông qua và chính thức có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2007. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hàng không dân dụng Việt Nam đã được Quốc hội thông qua. Quốc hội khóa 13, kỳ họp thứ 8 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2015. Cục Hàng không Nhà nước đã ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, chính sách điều chỉnh hoạt động vận tải hàng không. Ngành hàng không đã chủ động, linh hoạt hội nhập quốc tế theo hướng tự do hóa, góp phần quan trọng thúc đẩy thị trường hàng không phát triển, nhất là khi Nhà nước có chính sách cho phép mở rộng sang các thành phần kinh tế khác. khuyến khích và bảo đảm quyền khai thác đến, đi từ Việt Nam của các hãng hàng không nước ngoài. 2. Phát triển vận tải hàng không
Chính sách tự do hóa vận tải hàng không theo lộ trình đã phát huy tác dụng, đảm bảo mở rộng thị trường cho các hãng hàng không, khuyến khích các hãng hàng không quốc tế bay đến Việt Nam, góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển ngành hàng không của thị trường vận tải Hồng Kông. Tổng thị trường vận tải hành khách năm 2014 đạt 33,15 triệu lượt, tăng bình quân 12%/năm giai đoạn 2010-2014; hàng hóa đạt 741 nghìn tấn, tăng bình quân 12,8%/năm. Chính sách xã hội hóa giao thông của Hồng Kông đã khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia. Hiện 4 hãng hàng không của Việt Nam (Vietnam Airlines, Jetstar Pacific Airlines, VASCO, Vietjet Air) đều là hãng hàng không cổ phần, tư nhân hoặc liên doanh với nước ngoài; hiện khai thác 56 đường bay quốc tế, 46 đường bay nội địa. Thị trường vận tải nội địa cạnh tranh khốc liệt, mang lại lợi ích cho người tiêu dùng. Tính đến hết tháng 5/2015, về vận chuyển hành khách, Vietnam Airlines chiếm 49,3%, VietJet Air chiếm 34,4%, Jetstar Pacific chiếm 14,5%, VASCO chiếm 1,8% thị phần nội địa. Tính đến tháng 12 năm 2014, có 51 hãng hàng không nước ngoài khai thác 83 đường bay quốc tế đến Việt Nam. Các hãng hàng không nắm giữ 46,9% thị trường vận chuyển hành khách quốc tế và 11,7% thị phần hàng hóa quốc tế
Việc ưu tiên phát triển đội tàu bay sở hữu đã tạo tiền đề cơ bản cho sự tăng trưởng và nâng cao vị thế của Vietnam Airlines. Đội tàu phát triển đúng hướng, tiến thẳng lên công nghệ, kỹ thuật hiện đại, đồng bộ. Tính đến tháng 5 năm 2015, đội bay của Vietnam Airlines có 136 chiếc, bao gồm 109 chiếc máy bay cánh bằng vận chuyển hàng không theo lịch trình, 03 chiếc máy bay cánh bằng vận chuyển hàng không thông thường và 24 máy bay trực thăng; tuổi trung bình của máy bay là 6 năm; số lượng máy bay sở hữu là 48 chiếc, tương đương 42,9%. Các hãng hàng không đã đưa vào khai thác các loại máy bay mới hiện đại, được ưa chuộng trên thế giới như: B.777, A.330, A.321, A.320, ATR72. Hơn hết, năm 2015, Vietnam Airlines đã tiếp nhận máy bay phản lực thế hệ mới A350-900 jumbo với sức chở tối đa 305 hành khách tại Pháp vào ngày 30/6/2015 và máy bay Boeing 787-9 Dreamliner tại Washington DC dưới sự chứng kiến của Nguyên Tổng Bí thư. Phú Trọng nhân dịp Tổng Bí thư thăm chính thức Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Đây là dấu mốc quan trọng trong lộ trình thay thế toàn bộ máy bay hiện tại bằng loại phản lực thế hệ mới jumbo trong vòng 3 năm tới, đưa Việt Nam trở thành quốc gia đầu tiên ở châu Á - Thái Bình Dương cùng lúc tiếp nhận, khai thác hai loại máy bay hiện đại thế hệ mới là Boeing 787- 9 Dreamliner và Airbus A350-900 XWB. Bên cạnh đó, hoạt động bảo dưỡng máy bay, đào tạo phi công, tiếp viên được mở rộng đáng kể, hỗ trợ 100% cho tất cả các máy bay của Vietnam Airlines. Hoạt động quản lý vận tải của Hong Kong được thực hiện chặt chẽ, kiểm soát năng lực và lập kế hoạch khai thác vận tải hàng không; đảm bảo quyền lợi thương mại và nâng cao năng lực cạnh tranh của hãng hàng không; khuyến khích cạnh tranh đồng thời bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh; nâng cao chất lượng dịch vụ và bảo vệ quyền lợi của người sử dụng dịch vụ; Đồng thời rà soát, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Triển khai đồng bộ trong toàn ngành Chương trình tái cơ cấu ngành GTVT Hồng Kông. Vận tải hàng không đã tạo ra những bước đột phá và phát triển năng động trong hội nhập kinh tế quốc tế, lan tỏa ra khắp các châu lục và trở thành chủ lực. Đó là yếu tố quan trọng trong việc thu hút đầu tư, du lịch và các hoạt động thương mại, văn hóa. các hoạt động giữa Việt Nam và thế giới. 3. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng và cảng hàng không, sân bay
Hoàn thành quy hoạch 25/26 cảng hàng không trong hệ thống cảng hàng không, cảng biển cả nước, góp phần định hướng phát triển lâu dài cân đối, đồng bộ và đúng hướng, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Kiểm soát chặt chẽ chất lượng cung cấp dịch vụ của cảng HK, SB, năng lực và điều kiện hoạt động của hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị của cảng HK, SB, năng lực của nhân sự HK trong lĩnh vực khai thác cảng HK, SB. Triển khai đồng bộ, hiệu quả chương trình nâng cao hiệu quả và chất lượng quản lý, vận hành cơ sở hạ tầng của Hồng Kông; cấp, sửa đổi, bổ sung giấy chứng nhận đăng ký, giấy chứng nhận hoạt động cho 21/21 cảng HK, SB; ủy quyền cung cấp dịch vụ từ Hồng Kông cho 28 công ty. Hoàn thành phê duyệt tài liệu Hệ thống quản lý an toàn (SMS) cho Cảng 21/21 HK; Cảng Hồng Kông 21/21 Kế hoạch dự phòng đã được phê duyệt. Ngày 8/2/2012, theo quyết định của Bộ Giao thông vận tải, 3 cảng hàng không tổng hợp ba miền Bắc, Trung, Nam được sáp nhập thành Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam (ACV). Việc sáp nhập 3 Tổng công ty 3 miền Bắc, Trung, Nam đã giúp Công ty tập trung nguồn lực đầu tư hiện đại hóa hệ thống cảng hàng không, SB. Trải qua hơn 3 năm kể từ khi thành lập, Tổng công ty Hàng không Việt Nam đã phát huy mạnh mẽ các nguồn lực vượt trội làm đòn bẩy đưa hoạt động đạt hiệu quả tối ưu về mọi mặt. Do chủ động điều tiết nội lực của Tổng công ty CHKVN cho đầu tư phát triển hệ thống mạng CHK, SB toàn quốc, năng lực cạnh tranh chung của các CHK, SB Việt Nam đối với khu vực được tăng lên. Giai đoạn 2001-2014 đã tiến hành xây dựng mới CHK Đồng Hới và CHKQT Phú Quốc; Cải tạo, nâng cấp các CHKQT: Tân Sơn Nhất, Cần Thơ, Đà Nẵng, Cam Ranh, Phú Bài, Chu Lai, Nội Bài và các CHK, SB nội địa: Côn Sơn, Rạch Giá, Liên Khương, Vinh, Thọ Xuân, Buôn Ma Thuột, Tuy Hòa. Trong đó hoàn thành đưa vào khai thác các công trình trọng điểm như: Nhà ga hành khách T1 CHKQT Nội Bài; Nhà ga hành khách quốc tế SB Tân Sơn Nhất; nhà ga hành khách CHKQT Cam Ranh; khu bay và nhà ga hành khách CHK Liên Khương; CHKQT Phú Quốc; CHK Đồng Hới; SB Thọ Xuân; khu bay và nhà ga hành khách CHKQT Cần Thơ; đường CHC 35R/17L và nhà ga hành khách quốc tế SB Đà Nẵng; đường CHC, sân đỗ và nhà ga hành khách CHKQT Phú Bài; nhà ga hành khách và mở rộng sân đậu tàu bay CHK Buôn Ma Thuột; khu HKDD Tuy Hòa; đường lăn, sân đỗ máy bay, nhà ga hành khách T2 và nhà khách VIP Nội Bài; ILS, AWOS và đèn hiệu hàng không Đồng Hới; đèn hiệu hàng không và ILS Thọ Xuân; đường CHC 25R/07L và nhà ga T1 Tân Sơn Nhất mở rộng; Sửa chữa đường CHC 1A Nội Bài.
Ngoài ra ngành HKDDVN đang triển khai nhiều dự án lớn như: Dự án đầu tư xây dựng Nhà ga hàng khách – Cảng HKQT Cát Bi (công suất 4 triệu hành khách/năm, dự kiến hoàn thành trong Quý II/2016); dự án đầu tư xây dựng Khu hàng không dân dụng - Cảng hàng không Thọ Xuân (có công suất thiết kế 1,2 triệu hành khách/năm, có khả năng mở rộng nâng lên 2 triệu hành khách/năm, dự kiến hoàn thành và đưa vào khai thác trong tháng 01/2016); dự án đầu tư xây dựng Khu hàng không dân dụng – Cảng hàng không Phù Cát (công suất thiết kế 1,5 triệu hành khách/năm, có khả năng mở rộng để nâng công suất lên 2,4 triệu hành khách/năm, dự kiến hoàn thành và đưa vào khai thác trước Tết Nguyên đán 2016); Riêng dự án kéo dài, nâng cấp đường cất hạ cánh, đường lăn, sân đậu máy bay, cải tạo nhà ga hành khách - Cảng hàng không Pleiku sẽ khai thác vào tháng 9/2015, đáp ứng khả năng phục vụ các máy bay Airbus 321, 320, Boing 737. Tiến hành chuẩn bị đầu tư dự án Xây dựng CHKQT Long Thành. Dự án xây dựng Cảng hàng không quốc tế Long Thành đã được Quốc hội thông qua với quy mô diện tích dự án là 5.000 ha, tổng mức đầu tư cho dự án là 336,763 tỷ đồng. Dự án sử dụng nguồn vốn có phần từ ngân sách nhà nước, vốn cổ phần của doanh nghiệp nhà nước trong ngành hàng không, vốn ODA, vốn doanh nghiệp, vốn đối tác công tư (PPP) và các loại vốn khác theo quy định của pháp luật. Về thời hạn và tiến độ thực hiện, dự án được chia thành 3 giai đoạn. Hoàn thành và đưa vào khai thác chậm nhất là năm 2025. Theo quy hoạch, sau khi hoàn thành, sân bay này sẽ có 4 đường băng tiêu chuẩn quốc tế, có thể phục vụ các loại máy bay hai tầng khổng lồ như Airbus A380, Boeing 747, cùng 4 nhà ga lớn và hiện đại với tổng công suất phục vụ 100 triệu khách/năm. Nhà ga hàng hoá công suất 5 triệu tấn/1 năm. Theo kế hoạch sân bay Long Thành sẽ là một Cảng trung chuyển hàng không quốc tế của khu vực.
Hệ thống kết cấu hạ tầng hàng không đã và đang được triển khai đầu tư xây dựng đúng theo Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch phát triển và phù hợp với quy hoạch CHK, SB được duyệt; hiện tại đang phát huy hiệu quả. Việc đầu tư nâng cấp kết cấu hạ tầng hàng không giai đoạn 2001-2014 đã tăng cường cơ bản năng lực phục vụ của các CHK và điều hành bay, đáp ứng phần lớn nhu cầu phát triển của thị trường vận tải hàng không trong nước cũng như thế giới, đóng góp quan trọng vào nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc phòng, phát triển kinh tế đất nước, tạo dựng hình ảnh tốt đẹp và vị thế của hàng không Việt Nam trên trường quốc tế